Đây là câu chuyện về những gì đã xảy ra tại Loudun, Pháp, vào năm 1632, khi toàn bộ viện nữ tu được cho là bị quỷ ám. Những sự kiện được mô tả dưới đây thực sự đã diễn ra, mặc dù qua nhiều thế kỷ, người ta đã diễn giải chúng theo vô số cách khác nhau—và chắc chắn, bạn cũng sẽ có những ý kiến của riêng mình. Có ba nhân vật trung tâm trong câu chuyện: một Mẹ Bề trên, một thầy trừ tà, và một linh mục. Cho đến cuối cùng, một người trong số họ sẽ trở nên nổi tiếng, một người sẽ hóa điên, và một người sẽ phải chết.
Ban đầu, các nữ tu báo cáo về những chuyện kỳ lạ trong tu viện: họ thấy các tà linh lang thang ngoài hành lang, và một ngày nọ, một quả cầu đen khổng lồ lăn qua phòng ăn, xô ngã một số nữ tu. Sau đó, họ bắt đầu biểu lộ những dấu hiệu không thể nhầm lẫn của việc bị ám: co giật, nhìn thấy thị kiến, sức mạnh phi thường, ghê tởm các vật thánh, và giận dữ với các cha giải tội của mình. Họ nghe thấy những giọng nói, cười không kiểm soát, khóc lóc, la hét, ngất xỉu, co giật, và dường như bị những bàn tay vô hình tát vào mặt.
Một thầy trừ tà được mời đến, và sự việc nhanh chóng được dư luận địa phương biết đến. Ngày qua ngày, các nữ tu bị đưa lên một bục cao giữa trung tâm thị trấn, trong khi đám đông tụ tập theo dõi. Bị trói vào ghế, họ quằn quại trong khi thầy trừ tà gọi ra những con quỷ bên trong họ và cố gắng buộc các tà linh phải tiết lộ tên của chúng.
Chẳng bao lâu sau, sự việc vỡ lở rằng đây không chỉ đơn thuần là một vụ quỷ ám, mà còn liên quan đến tà thuật. Cụ thể, các nữ tu đã chỉ đích danh Urbain Grandier—một linh mục địa phương và cũng là cha giải tội của họ. Ông này là một nhân vật gây tranh cãi, vì những tập sách mỏng mà ông dùng để chia sẻ các quan điểm phi chính thống, những lời chỉ trích gay gắt nhắm vào các nhà lãnh đạo nhà thờ, và mối quan hệ lăng nhăng với con gái của một nhân vật “tai to mặt lớn” tại địa phương.
Dường như, Grandier đã gây thù chuốc oán với quá nhiều kẻ thù có quyền thế. Khi các nữ tu đưa ra một bản khế ước giữa ông và Quỷ (rõ ràng đây là bản sao của bản gốc, được ký bằng chính máu của ông và cất giữ tận sâu trong Địa ngục), số phận của ông đã được định đoạt. Ông bị xét xử vì tội dùng tà thuật, bị kết tội, và bị thiêu sống trên giàn.
Số phận khủng khiếp của Grandier đã thu hút nhiều sự chú ý đến các sự kiện tại Loudun suốt nhiều năm. Nhưng sự thật là, nhìn chung, các vụ quỷ ám hàng loạt trong tu viện không phải là hiếm. Nhà sử học tôn giáo Moshe Sluhovsky đã xác định được ít nhất bốn mươi lăm trường hợp riêng biệt, hầu hết đều ít được biết đến. Phần lớn các vụ việc diễn ra trong các dòng tu vừa trải qua một cuộc cải cách mạnh mẽ nào đó. Ví dụ, vào những năm 1490, một nhóm nữ tu ở Florence bắt đầu có dấu hiệu bị ám sau khi những quy tắc nghiêm ngặt mới được áp đặt cùng với sự trỗi dậy của nhà khổ tu đầy lôi cuốn Savonarola. Khi các quy tắc được nới lỏng, lũ quỷ cũng rời đi.
Trong hai thập kỷ trước vụ quỷ ám hàng loạt tại Loudun, dòng Ursuline, vốn là một dòng tu rất năng động và hướng ngoại, đã bị buộc phải sống đời nội vi (ẩn tu). Chúng ta có một nguồn sử liệu sơ cấp rất thú vị về quá trình chuyển đổi này: lời của một con quỷ, được ghi lại trong một vụ quỷ ám hàng loạt khác, lần này là của các nữ tu Ursuline tại Aix vào năm 1611. Sluhovsky viết rằng con quỷ đã tuyên bố rằng nó:
tức giận với những kẻ sống khiết tịnh trong tu viện của chúng; nhưng dòng Ursuline làm ta tức điên hơn, vì chúng cứu được quá nhiều linh hồn… Tất cả lũ quỷ chúng tao đã cố gắng hết sức để thuyết phục chúng từ bỏ ơn gọi của mình; chúng tao giải thích với chúng rằng những bức tường tu viện là phù hợp nhất cho phụ nữ, và rằng chúng đã sai, rằng ơn gọi của chúng không được chấp thuận.
Trong trường hợp này, việc bị ám có thể đã mang lại cho các nữ tu một cơ hội để lên tiếng – dù là bằng giọng nói của ma quỷ – về những thay đổi đang bị áp đặt lên họ.
Như Sluhovsky lưu ý, một yếu tố phức tạp khác là không phải lúc nào cũng có ranh giới rõ ràng giữa trạng thái xuất thần và việc bị quỷ ám. Ông cho rằng:
Điều vô cùng quan trọng là phải nhận ra rằng một khi tình trạng bị ám xảy ra, bản thân các nữ tu, các mẹ Bề trên, các Cha giải tội, hoặc các nhà thần học khác đang chứng kiến sự kiện không thể lập tức biết rõ bản chất của tác nhân đang chiếm hữu là gì, và liệu nó đến từ thần thánh hay ma quỷ. Điều quan trọng không kém là phải nhận thấy rằng sự phân định các thần khí không phải là một bài tập tri thức hay trừu tượng, mang tính kinh viện, mà là một thực hành xã hội – một thực hành liên quan đến chính các nữ tu bị ám, bạn bè và kẻ thù của họ, các chị em, các viện mẫu, các vị linh hướng, các cha giải tội, và các chuyên gia bên ngoài.
Vậy thì, khi một hiện tượng tâm linh kỳ lạ xuất hiện, ai sẽ là người quyết định ý nghĩa của nó? Làm thế nào để bạn xác định ai là vị tu sĩ thánh thiện và ai là người bị quỷ ám? Và bạn sẽ làm gì khi lũ quỷ từ chối tuân theo quy tắc?
Sau khi Grandier bị hành quyết, Mẹ Bề trên tại Loudun, Jeanne des Anges, vẫn tiếp tục bị quỷ dày vò. Một thầy trừ tà mới được mời đến, một tu sĩ tên là Jean-Joseph Surin.
Surin có một cách tiếp cận trừ tà khác. Sẽ không còn cảnh tượng nào nữa. Thay vào đó, ông sẽ lặng lẽ ngồi cùng nữ tu bị ám, đọc kinh cho cô, và thì thầm vào tai cô về việc tìm kiếm sự bình an nội tâm. Mong muốn cứu cô gái của ông mãnh liệt đến nỗi, như chính Surin (tự xưng bằng ngôi thứ ba) kể lại:
[ông] không thể không hiến dâng mình cho Đấng Tối Cao để gánh lấy cái ác của cô gái đáng thương đó và cùng chia sẻ mọi cám dỗ và đau khổ của cô, đến mức xin được quỷ ám…
Jeanne lên một cơn co giật dữ dội. Khi cô tỉnh lại, trên tay cô hằn lên những vết đỏ như máu mang tên Jesus, Mary, Joseph, và Cha Sales (vị thánh đã phát triển hình thức cầu nguyện mà Surin sử dụng khi trừ tà). Lũ quỷ đã bị trục xuất, nhưng, như Surin viết sau này: “Trong thừa tác vụ của mình, con quỷ đã di chuyển từ cơ thể người bị ám và nhập vào tôi.“
Jeanne des Anges nhanh chóng trở thành người nổi tiếng, đi khắp nước Pháp để khoe bàn tay được khắc chữ một cách thần kỳ của mình. Ngược lại, Jean-Joseph Surin, bị dày vò suốt hai mươi năm sau đó bởi những chứng bệnh mà ông cho là do lũ quỷ của Jeanne gây ra: ý định tự tử, cơn đau thể xác kinh hoàng, hoang tưởng, chứng căng trương lực mà cuối cùng khiến ông không thể nói được, và nỗi tuyệt vọng thiêng liêng sâu sắc. Ông chỉ hồi phục vào vài năm cuối đời. Một trong những việc cuối cùng ông làm là ghi lại toàn bộ câu chuyện trong cuốn hồi ký của mình.
