Ghi chép này là lược dịch, có chỉnh sửa nội dung của Chương II: Nguồn gốc của Quỷ, trong quyển sách Demonology and Devil-lore, của tác giả Moncure Daniel Conway.
Chương này tác giả sẽ nói đến tên gọi của ma quỷ, còn có bản chất pha trộn của chúng, và sự phân biệt giữa Demon và Devil. Chương này sẽ định nghĩa lại một số khái niệm mà chúng bị truyền thông đại chúng làm cho nhầm lẫn.
Điện Thần đầu tiên của mỗi chủng tộc được xây dựng từ những suy đoán bằng tri thức. Xét về mặt đạo đức, mỗi hình thái trong đó ít nhiều đều có thể được mô tả là mang đặc tính của quỷ; và, thực vậy, gần như có thể khẳng định rằng tôn giáo, khi được coi là một sự phụng sự dâng lên các đấng siêu phàm, đã bắt đầu bằng việc xoa dịu loài Quỷ, mặc dù chúng có thể được gọi là Thần. Con người nhận thấy rằng trên mặt đất, những điều tốt đẹp đến rất khó khăn, trong khi gai góc và cỏ dại mọc lên khắp nơi. Các thế lực tà ác dường như là mạnh nhất. Vị thần tuyệt vời nhất cũng có một nét quỷ trong mình. Mặt trời là nhân từ nhất, nhưng ngài mang đến cả say nắng cùng với ấm áp, và làm tàn úa những bông hoa mà ngài đánh thức. Sự huy hoàng, sức mạnh, vẻ uy nghi, sự đe dọa, sự vĩ đại và cơn thịnh nộ của bầu trời và các nguyên tố đã hòa quyện trong những hình hài nhân cách hóa này, và được phản chiếu qua sự tôn thờ trong run rẩy dành cho chúng.
Những cái tên mỹ miều mà tín đồ đặt cho các thế lực này phải được diễn giải thông qua những vật hiến tế đắt giá mà con người dùng để xoa dịu chúng. Ban đầu, sẽ không có sự hiến tế nào được dâng lên cho một thế lực thuần túy nhân từ. Các nữ thần Furies (Nữ thần Báo oán) được gọi là Eumenides, “những người có thiện ý,” và có một sự cám dỗ khi coi cái tên này là sự lưu giữ ý nghĩa nguyên thủy của gốc tiếng Phạn cho từ Erinyes, tức là Saranyu, nghĩa là ánh bình minh lướt trên bầu trời. Nhưng các mô tả về Erinyes của các nhà thơ Hy Lạp—đặc biệt là Æschylus, người miêu tả chúng đen đúa, tóc quấn rắn, mắt rỉ máu, và gọi chúng là “bầy chó săn” – cho thấy rằng Saranyu, với tư cách là ánh bình minh, và do đó là kẻ phơi bày những hành động trong bóng tối, đã dần bị hạ cấp thành sự nhân cách hóa của Lời nguyền. Tuy nhiên, trong khi công nhận cái tên Eumenides là một mỹ tự, chúng ta vẫn có thể không kém phần ngưỡng mộ sự phát triển của chủ nghĩa duy lý, mà cuối cùng đã tìm thấy trong mỹ tự đó một gợi ý về linh hồn của cái thiện trong những điều ác, và gần như khôi phục lại ý nghĩa nhân từ của Saranyu. “Ta đã an vị tại nơi này,” nữ thần Athene nói trong vở “Eumenides” của Æschylus, “những vị thần hùng mạnh này, rất khó để xoa dịu; họ đã nhận được qua rút thăm quyền quản lý mọi thứ liên quan đến con người. Nhưng kẻ nào không thấy được sự hiền dịu của họ sẽ không biết được những tai ương của cuộc đời đến từ đâu.” Nhưng trước khi các Erinyes đáng sợ của thời Homer trở thành “những nữ thần đáng kính” (σεμναὶ θεαὶ) trong cụm từ phổ biến ở Athens, hay các Eumenides trong cái nhìn sâu sắc của nhà thơ sau này, vốn xuyên thấu qua hình dạng Gorgon (Nữ quỷ tóc rắn) do chính ông miêu tả, họ đã trải qua tất cả các giai đoạn của nỗi kinh hoàng nhân loại. Các thế hệ co rúm [vì sợ hãi] đã cố gắng xoa dịu những kẻ báo thù không khoan nhượng bằng những mỹ từ. Việc thờ phụng loài rắn, bắt nguồn từ nỗi sợ hãi tương tự, cũng đã nâng loài vật đó lên một cảnh giới nơi các nhà thơ có thể gán cho nó nhiều ý nghĩa sâu sắc và đẹp đẽ. Nhưng những vị thần rõ ràng là đáng sợ này được tìm thấy ở vùng ranh giới mờ ảo của thần thoại, nơi chúng ta có thể nhìn lại các thời đại khi nỗi sợ hãi, vốn là nơi sinh ra sự thờ phụng, vẫn chưa được tách bạch thành các yếu tố kính sợ và ngưỡng mộ, [9] cũng như thiên đường của các thế lực tối cao chưa được phân chia thành các cấp bậc gồm những đấng nhân từ và hùng tàn; và, mặt khác, chúng ta có thể nhìn về phía trước, đến thời đại mà ý thức đạo đức của con người bắt đầu hình thành sự phân biệt giữa thiện và ác, đúng và sai, điều này biến vũ trụ quan thành tôn giáo, và ấn định cho mỗi vị thần do tâm trí tạo ra thực hiện vai trò của mình trong việc phản ánh các cuộc đấu tranh vật chất và đạo đức của nhân loại.

Các quá trình trung gian, mà qua đó cái thiện và cái ác bị tách rời, và tiến tới sự nhân cách hóa riêng biệt, không phải lúc nào cũng có thể truy dấu, nhưng dấu hiệu về công việc của chúng trong hầu hết các trường hợp là đủ rõ ràng. Lấy ví dụ, mối quan hệ giữa Baal và Baal-zebub là không thể nghi ngờ. Một bên đại diện cho Mặt Trời trong sự huy hoàng của nó với tư cách là đấng ban sự sống cho Thiên nhiên và tô vẽ vẻ đẹp của nó, bên còn lại là sức mạnh sinh sôi côn trùng của Mặt trời. Baal-zebub là Thần Ruồi. Chỉ trong một thời kỳ tương đối gần đây, vị thần của người Philistine, người mà Ahaziah đã cầu xin sấm truyền (2 Các Vua i.), mới phải chịu tiếng tăm là “Chúa tể của các Ác Quỷ“, tên của ông ta bị đổi bằng một cách chơi chữ đơn thuần thành Beelzebul (thần-phân). Không loại trừ khả năng việc người mẹ Ai Cập hiện đại ngần ngại xua đuổi ruồi đậu trên đứa con đang ngủ của mình, và sự thiêng liêng được gán cho các loài côn trùng khác nhau, bắt nguồn từ sự kính sợ dành cho ông ta. Danh hiệu Thần Ruồi tương đồng với mỹ tự tôn kính ἀπόμυιος (Apomyios), được áp dụng cho thần Zeus khi được thờ cúng tại Elis,1 Myiagrus deus của người La Mã,2 và Myiodes được Pliny đề cập đến.3 Hình ảnh của chúng ta có lẽ lấy từ một lá bùa hộ mệnh, và rõ ràng là do các tín đồ của vị thần này tạo ra. Có một câu chuyện về một người phụ nữ nông dân trong một nhà thờ ở Pháp bị phát hiện đang quỳ gối trước một nhóm tượng đá cẩm thạch, và bị một linh mục cảnh báo rằng bà đang thờ lạy sai hình tượng—tức là Beelzebub. “Không sao cả!” bà ta trả lời, “có bạn ở cả hai phía thì cũng tốt thôi.” Câu chuyện này dù bây giờ chỉ được coi là ben trovato (bịa khéo), có lẽ đại diện cho trạng thái tâm lý thực sự của nhiều người Babylon khi cầu xin sự bảo hộ của Thần Ruồi chống lại những bầy đàn đầy nọc độc của ngài.
Minh họa từ thần thoại Bắc Âu cũng không kém phần rõ ràng. Trong Edda của Sæmund, Loki có tà tâm nói:
Odin! Ngài có nhớ
Khi chúng ta trong những ngày đầu
Đã hòa máu cùng nhau?
Cả hai tách rời nhau rất chậm chạp; vì sự chia tách của họ ngụ ý sự tan rã của cả một tôn giáo lớn, và sự phân chia của nó thành các hình thức mới; và một tôn giáo, một cách tương đối, cần nhiều thời gian để suy tàn cũng như để phát triển, như chúng ta, những người đang sống dưới một tôn giáo đang tan rã, có lý do chính đáng để biết. Protap Chunder Mozoomdar, thuộc hội Brahmo-Somaj, trong một bài diễn văn tại London, đã nói, “Điện thần Ấn Độ có hàng triệu vị thần, và không còn chỗ cho Ác Quỷ.” Ông ta có thể đã nói thêm rằng các vị thần này đã phân chia nhau tất cả công việc mà Ác Quỷ có thể thực hiện nếu y được chấp nhận. Nhận xét của ông làm tôi nhớ đến câu chuyện trong Edda về việc Loki bước vào hội đồng các vị thần trong đại sảnh của Oegir. Loki – người được định sẵn trong một thời đại sau này sẽ bị đồng hóa với Satan – bị các vị thần tiếp đón một cách giận dữ, nhưng y đi vòng quanh và đề cập đến những sự cố trong cuộc đời của mỗi người, cho thấy họ cũng chẳng tốt đẹp gì hơn y. Các nam thần và nữ thần, không thể đáp lại, đã xác nhận những lời chỉ trích của kẻ hoài nghi theo kiểu thần học bằng cách trói y lại bằng một con rắn dùng làm dây. Con rắn luôn đại diện cho cái Quỷ, nhưng lúc này lại trói buộc cái Ác. Phải chăng ám chỉ đến việc khi chúng ta vay mượn từ Quỷ, cũng sẽ bị Quỷ trói buộc.
Cố học giả Theodore Parker được cho là đã trả lời một tín đồ phái Calvin, người đang tìm cách cải đạo ông – “Sự khác biệt giữa chúng ta rất đơn giản: Chúa của ông là ác quỷ của tôi.” Hầu như không có gì phải bàn cãi rằng người Do Thái, dân tộc mà tín đồ phái Calvin kế thừa vị thần của mình, không có ác quỷ trong thần thoại của họ, bởi vì một Jehovah ghen tuông và thù hận là quá đủ cho bất kỳ công việc nào thuộc loại đó, – như làm chai cứng trái tim của Pharaoh, giáng bệnh dịch xuống vùng đất, hay lừa dối một nhà tiên tri rồi tiêu diệt ông ta vì những lời tiên tri sai lầm của mình.4 Mối quan hệ “bao sân” tương tự của các vị thần nguyên thủy đối với mọi hiện tượng tự nhiên sẽ giải thích cho sự vắng mặt của các đại diện tội lỗi riêng biệt trong các tôn giáo sơ khai nhất.
Những ngoại lệ sớm nhất đối với sự hài hòa nguyên thủy này của các vị thần, vốn ngụ ý sự hỗn mang trong đạo đức con người, khá là vặt vãnh: con quái vật thỉnh thoảng xuất hiện dường như chỉ đáng nhắc đến để phô trương lòng dũng cảm của vị thần đã giết nó. Nhưng đó chính là những mầm mống của Quỷ, sinh ra từ hoạt động cấu trúc của tâm trí con người ngay khi nó bắt đầu hình thành một triết lý nào đó về một vũ trụ mà ban đầu nó chỉ nhìn với sự kinh ngạc đơn thuần, và được định sẵn cho một sự tiến hóa có tầm quan trọng to lớn khi công việc đạo đức hóa chúng diễn ra sau đó.
Chúng ta hãy đứng bên cạnh tổ tiên man di, nhưng không còn hoang dã, của mình trong quá khứ xa xăm. Chúng ta đã ngắm nhìn buổi sáng hồng tươi khi nó rực lên thành một buổi trưa chói lòa: rồi đột nhiên mặt trời bị xóa sổ, cơn bão gào thét, đó là một đêm tối đột ngột chỉ được thắp sáng bởi tia chớp hình nĩa đánh vào cây cối, nhà cửa, con người, với tiếng sấm giận dữ. Từ một thời đại có tri thức, con người có thể nhìn cơn bão làm đen kịt bầu trời không phải là kẻ thù của mặt trời, mà là một trong những hiệu ứng tuyệt vời của chính nó; nhưng vài ngàn năm trước, khi tất cả chúng ta đang sống trong thời kỳ man di ở phương Đông, chúng ta không thể tưởng tượng được rằng một tinh tú mà công việc chính là ban phát ánh sáng, lại có thể tham gia vào sự che khuất của chính mình. Chúng ta khi đó nhìn với sự thương hại cho sự ngu dốt của tổ tiên, những người đã hát thánh ca cho những con rồng bão, hy vọng huyễn dụ chúng trở nên yên tĩnh; và chúng ta đi đến Thuyết Nhị nguyên bằng một logic không thể cưỡng lại, vốn đã chia cắt vũ trụ hữu hình trong một thời gian dài, và vẫn đang chia cắt vũ trụ đạo đức, thành hai phe thù địch.
Đây là nguyên lý mẹ mà từ đó loài quỷ (theo nghĩa thông thường của thuật ngữ này) bắt nguồn. Ban đầu, số lượng quỷ rất ít, được phân biệt với đám đông các vị thần bởi sự gây hại đặc biệt, chúng được nhân lên cùng với sự phát triển của con người trong việc phân loại thế giới của mình. Nguyên lý tồn tại của chúng có khả năng mở rộng vô hạn, cho đến khi nó bao gồm tất cả các cõi của bóng tối, sợ hãi và đau đớn. Trong tên gọi của loài quỷ, và trong các truyền thuyết về chúng, các cuộc đấu tranh của con người trong các thời đại yếu đuối với hiểm nguy, thiếu thốn và cái chết, được ghi lại đầy đủ hơn bất kỳ văn bia nào. Nhị nguyên luận là một tín điều được mọi biểu hiện bề mặt chứng thực. Song song bên nhau, sa mạc và đất đai màu mỡ, ánh nắng và sương giá, nỗi buồn và niềm vui, sự sống và cái chết, ngồi dệt quanh mỗi cuộc đời tấm áo choàng bằng những sợi chỉ sáng và sẫm, và chỉ có Khoa học mới có thể phát hiện ra làm thế nào mà mỗi bên lại trao con thoi cho bên kia. Chúng sẽ xuất hiện như kẻ thù của nhau trong mọi lĩnh vực mà tri thức chưa làm chủ được. Có một điệp khúc, được thu thập từ nhiều thời đại, trong lời tán ca con hổ của William Blake:
Hổ! Hổ! rực cháy sáng
Trong rừng đêm sâu thẳm;
Bàn tay hay ánh mắt bất tử nào
Đã tạo nên sự đối xứng đáng sợ của ngươi?
Trong vực thẳm hay bầu trời xa xôi nào
Đã bùng lên ngọn lửa trong mắt ngươi?
Trên đôi cánh nào y dám khát vọng?
Bàn tay nào dám nắm lấy ngọn lửa?
Khi các vì sao buông giáo
Và tưới đẫm trời bằng nước mắt,
Ngài có mỉm cười khi thấy tác phẩm của mình?
Đấng tạo ra cừu non cũng tạo ra ngươi sao?
Điều mà một trong những thiên tài sùng đạo nhất nước Anh từng sản sinh ra – đã hỏi, được trả lời một cách thầm lặng ở Ấn Độ bởi người thờ rắn đang quỳ gối với lưỡi mình ngậm trong tay; ở Ai Cập, bởi Osiris ngự trên ngai vàng có kẻ ô.5 Điều này ngụ ý cho việc Osiris đang cai trị thần dân của mình rất Công bằng và Trật tự. Cừu non mà không bị ăn “bởi bất cứ thứ gì”, chúng sẽ sinh sôi phá nát cả khu rừng.
Cần phải phân biệt rõ ràng giữa Quỷ (Demon) và Ác Quỷ (Devil), mặc dù, vì một số mục đích, chúng phải được đề cập cùng nhau. Thế giới đã bị quỷ ám ảnh trong nhiều thời đại trước khi có bất kỳ sự hiện thân nào của linh hồn chúng dưới một hình dạng trung tâm, chứ chưa nói đến bất kỳ khái niệm nào về một Nguyên lý Tà ác trong vũ trụ. Những con quỷ thời kỳ đầu không có tính cách đạo đức, không hơn gì một con hổ ăn thịt người. Không có sự bùng nổ phẫn nộ đạo đức nào xen lẫn với tiếng reo hò chiến thắng khi Indra giết Vritra, và khuôn mặt của Apollo vẫn thanh thản khi mũi tên của ngài xuyên qua Python. Phải cần đến một sự phát triển cao hơn nhiều của tình cảm đạo đức mới làm nảy sinh khái niệm về một ác quỷ. Chỉ có thứ ánh sáng mãnh liệt đó mới có thể tạo ra một cái bóng đen kịt bao trùm thế giới như niềm tin vào một linh hồn thuần túy ác độc. Với một khái niệm như vậy – yêu cái ác chỉ vì bản thân cái ác – từ Ác Quỷ (Devil) được giới hạn trong tác phẩm này; Quỷ (Demon) được áp dụng cho những sinh vật mà sự tai hại của chúng không phải là vô cớ, mà là ngẫu nhiên phát sinh từ sự thỏa mãn của chính chúng.
Thần linh (Deity) và Quỷ (Demon) là những từ ngữ có thể hoán đổi cho nhau, và từ thứ hai (Demon) chỉ đơn thuần bị hạ cấp do cách dùng thông thường của nó để chỉ định các thế lực kém nhân từ hơn và những phẩm chất, vốn ban đầu tồn tại trong mọi vị thần, sau khi chúng bị tách ra khỏi các vị thần này và được nhân cách hóa riêng biệt. Mỗi vị thần tươi sáng đều có cái bóng của mình, có thể nói như vậy; và dưới ảnh hưởng của Nhị nguyên luận, cái bóng này đã đạt được một sự tồn tại và nhân cách riêng biệt trong trí tưởng tượng của đám đông. Một khi nguyên tắc đã được thiết lập, rằng những gì có vẻ nhân từ và những gì có vẻ ngược lại phải được quy cho các thế lực khác nhau, thì rõ ràng là sự tiến hóa của quỷ phải liên tục, và sự phân bố của chúng cũng lan rộng tương đương với những tai ương mà xác thịt phải gánh chịu.
Chú thích:
- Pausan. v. 14, 2. ↩︎
- Solin. Polyhistor, i. ↩︎
- Pliny, xxix. 6, 34, init. ↩︎
- Ezekiel xiv. 9. ↩︎
- Tấm bảng Bembine tại Thư viện Bodleian. ↩︎
