XXXIV

by Pao Pevil

Một trong những hệ thống Quỷ học (demonologies) đáng chú ý nhất là hệ thống được viết trong Avesta, thánh kinh của tôn giáo Mazdean của Zoroaster. Trong tôn giáo cổ đại này, vốn không giống như tôn giáo của người Assyria, vẫn còn tồn tại trong cộng đồng Parsee, cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối, thiện và ác trở nên nổi bật hơn. Đối lập với vị Thần thiện lương – Ahura Mazda, cùng phẩm trật các thánh linh của ngài, là vương quốc hắc ám của quỷ, hay daevas, dưới trướng Anro Mainyus (Ahriman), Ác thần tàn bạo, Quỷ của các loài Quỷ (Daevanam Daeva), kẻ luôn chiến đấu chống lại Ahura Mazda và những tôi tớ trung thành của ngài như Zoroaster.

Cần lưu ý rằng cái tên Daeva là một ví dụ về sự thay đổi từ nghĩa tốt sang nghĩa xấu, điều cũng thấy trong trường hợp của từ daimon trong tiếng Hy Lạp. Bởi lẽ ý nghĩa nguyên thủy của từ này là “Đấng Tỏa sáng”, và nó xuất phát từ gốc Aryan nguyên thủy div, vốn cũng là nguồn gốc của từ Zeus trong tiếng Hy Lạp và deus trong tiếng Latin. Nhưng trong khi những từ này, giống như từ deva trong tiếng Phạn, vẫn giữ nghĩa tốt, thì daeva lại mang nghĩa là “một ác linh”.

Trong khi từ này ở nghĩa nguyên thủy đồng nghĩa với Lucifer, thì giờ đây nó lại mang ý nghĩa gần giống như devil (quỷ). Cũng có một sự trùng hợp kỳ lạ về sự tương đồng trong thanh âm giữa daeva, từ dev trong tiếng Ba Tư hiện đại, và từ devil. Nhìn vào sự giống nhau cả về âm thanh lẫn ý nghĩa, người ta có thể bị cám dỗ mà nói rằng chúng phải có chung một nguồn gốc, nhưng thực tế là chúng ta biết chắc chắn rằng từ devil xuất phát từ diabolus (diabolosdiaballein) và không thể có mối liên hệ nào với gốc Ba Tư hay Phạn ngữ.

Mặc dù có những khác biệt rõ rệt giữa quỷ của Avesta và devil trong Kinh thánh và thần học Cơ đốc (vì giáo lý Cơ đốc không vướng phải thuyết nhị nguyên của hệ thống Mazdean), cuộc đấu tranh cốt lõi giữa thiện và ác vẫn giống nhau trong cả hai trường hợp. Và những hình ảnh về sự thánh thiện và lòng trung thành của Zoroaster khi ông bị tấn công bởi những cám dỗ và bức hại của Anro Mainyus cùng bè lũ quỷ của hắn có thể gợi nhớ đến những thử thách của các thánh dưới sự tấn công của Satan hoặc gợi ý một sự tương đồng mờ nhạt với bối cảnh vĩ đại về sự cám dỗ của Đấng Christ trong hoang địa.

Một phần của Vendidad (Fargard xix), nơi chứa đựng sự cám dỗ của Zoroaster, đã được diễn giải lại một cách xuất sắc dưới dạng diễn giải giáo lý (doctrinal paraphrase) trong tác phẩm “Leaves from my Eastern Garden” của Tiến sĩ Casartelli. Vai trò quan trọng của quỷ trong hệ thống Mazdean có thể được thấy từ tiêu đề của Vendidad, phần lớn nhất và đầy đủ nhất của Avesta, đến nỗi khi thánh kinh này được viết hoặc in mà không có các bài bình luận, nó thường được biết đến với tên gọi Vendidad Sade, có nghĩa là “được ban cho để chống lại quỷ” — vidaevodata, tức là contra daimones datus hoặc antidaemoniacus.

You may also like