XXIV

by Pao Pevil

Tôi biết đến Nietzsche là từ một số tác phẩm triết học của ông, đặc biệt nhất là những tác phẩm về Cơ Đốc giáo. Ban đầu tôi đọc các tác phẩm của ông vì sự nổi tiếng, sau đó thì tôi thấy những lập luận của ông về việc Phản Ki-tô cũng bình thường, hay câu nói nổi tiếng “Chúa đã chết”, cũng chưa hẳn khiến tôi lay động suy nghĩ.

Sau đó tôi bắt đầu tìm hiểu về ông nhiều hơn và giai đoạn tôi muốn nghiên cứu nhất là 10 năm cuối đời của ông, từ 1889 đến 1900. Có nhiều câu hỏi tại sao xung quanh tôi, và buộc tôi phải tìm hiểu sâu hơn.

Bước ngoặt định mệnh xảy ra vào ngày 3 tháng 1 năm 1889, tại Turin, Ý. Nietzsche, khi đó 44 tuổi, đã trải qua một cơn suy sụp tinh thần nghiêm trọng. Theo câu chuyện được kể lại nhiều nhất, ông đã chứng kiến một người đánh xe ngựa quất con ngựa của mình một cách tàn nhẫn. Quá xúc động, Nietzsche đã chạy đến, ôm lấy cổ con ngựa để bảo vệ nó rồi gục ngã xuống đất. Lúc này có thể thấy Nietzsche bắt đầu có những đối cực trong tâm lý, ông xúc động mãnh liệt với nỗi đau mà kẻ khác chịu đựng, hay ông đang chứng kiến cảnh Chúa Jesus phải chịu cực hình khi vác thập giá, ông đã được khai thị và như sống lại từng khoảnh khắc đó.

Sau sự cố này, ông không bao giờ hồi phục lại được sự minh mẫn và khả năng làm việc triết học của mình. Những ngày sau đó, ông gửi đi những lá thư ngắn, kỳ lạ, được gọi là “Những lá thư điên cuồng” (Wahnbriefe), trong đó ông ký tên là “Dionysus” hoặc “Đấng bị đóng đinh”. Bạn thấy ông đã nhắc đến Dionysus, một vị thần trong thần thoại Hy Lạp, có nhiều ảnh hưởng và ý nghĩa, nhưng quan trọng lúc này là hàm ý về sự “xuất thần”, trong khoảnh khắc thấy con ngựa bị hành hạ, ông đã xuất thần và đã nhìn thấy được “Đấng bị đóng đinh”. Ông bắt đầu chấp nhận sự thật, và khi điều này xảy đến, những lý thuyết trước đây của ông thì sao?

Phần còn lại của cuộc đời Nietzsche là chuỗi ngày sống trong sự chăm sóc của người khác. Ban đầu, ông được đưa đến một phòng khám tâm thần ở Basel, Thụy Sĩ, và sau đó là một viện ở Jena, Đức. Chẩn đoán ban đầu cho rằng ông bị liệt não do giang mai, mặc dù chẩn đoán này vẫn còn gây tranh cãi cho đến ngày nay. Các giả thuyết khác bao gồm u não, rối loạn lưỡng cực hoặc một dạng sa sút trí tuệ di truyền. Năm 1890, mẹ ông, bà Franziska Nietzsche, đưa ông về nhà ở Naumburg để chăm sóc. Sau khi mẹ ông qua đời vào năm 1897, em gái ông, Elisabeth Förster-Nietzsche, tiếp quản việc chăm sóc ông tại Weimar.

Trong suốt 10 năm này, tình trạng của Nietzsche ngày càng xấu đi. Ông gần như không thể giao tiếp, mất khả năng tự chăm sóc bản thân và dần dần bị liệt. Mặc dù có những khoảnh khắc ngắn ngủi dường như minh mẫn, ông không còn khả năng sáng tác hay tham gia vào các cuộc thảo luận triết học. Ông sống trong một thế giới của riêng mình, phần lớn thời gian im lặng và vô cảm.

Năm 1898 và 1899, Nietzsche phải chịu đựng ít nhất hai cơn đột quỵ khiến ông bị liệt một phần và không thể nói hoặc đi lại. Sức khỏe của ông suy kiệt nhanh chóng. Nietzsche qua đời vào ngày 25 tháng 8 năm 1900 tại Weimar do viêm phổi, sau một cơn đột quỵ khác.

Tôi không thể hiểu nội tâm của ông trong 10 năm này khổ sở thế nào, nhưng nhìn những biểu hiện, những miêu tả về ông, tôi có thể suy đoán ông đã bị mắc bẫy của ma quỷ, sự “xuất thần” của ông đôi khi không phải nhìn thấy chính “Đấng bị đóng đinh”, mà đã thấy thứ gì đó khác lạ hơn. Tôi sẽ tìm cầu nhiều tư liệu hơn để xác minh việc này.

You may also like